Năm nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế
1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa các nước thành viên với nhau cũng như trong thị trường mỗi nước. Nguyên tắc này được thể hiện qua hai định chế là: dành cho nhau quy chế đối xử tối huệ quốc (MFN), tức là tất cả hàng hóa, dịch vụ và công ty…của các nước đối tác đều được hưởng một chính sách chung bình đẳng và dành cho nhau quy chế đối xử quốc gia (NT) tức là không phân biệt đối xử giữa hàng hóa, dịch vụ và công ty của nước mình với hàng hóa, dịch vụ, công ty của nước khác trên thị trường nội địa.
2. Nguyên tắc tiếp cận thị trường
Nguyên tắc tiếp cận thị trường nhằm tạo ra một môi trường thương mại mà bất cứ thành viên nào cũng được tiếp cận. Nguyên tắc này được thể hiện trên hai khía cạnh:
– Các nước thành viên mở cửa thị trường cho nhau thông qua việc cắt giảm từng bước, tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan tạo điều kiện cho thương mại phát triển.
– Các chính sách, luật lệ thương mại phải được công bố công khai, kịp thời, minh bạch để môi trường thương mại có tính dự đoán cao.
3. Nguyên tắc cạnh tranh công bằng
Nguyên tắc này yêu cầu các nước chỉ được sử dụng thuế quan là công cụ duy nhất để bảo hộ thương mại; Các biện pháp phi thuế (giấy phép, quota, hạn chế số lượng nhập khẩu…) đều được coi là “ làm méo mó thương mại” và không được phép sử dụng. Các biểu thuế phải được giảm dần trong quá trình hội nhập tùy thuộc thời gian được thỏa thuận của mỗi tổ chức hợp tác kinh tế khu vực, liên khu vực hoặc liên châu lục.
4. Nguyên tắc áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết
Theo nguyên tắc này, khi một ngành sản xuất của một nước thành viên bị hàng nhập khẩu đe dọa thái quá hoặc bị những biện pháp phân biệt đối xử gây phương hại thì nước đó có quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có những hành động khẩn cấp, cần thiết, được các thành viên khác thừa nhận, để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước.
5. Nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển
Nguyên tắc này thể hiện ở việc kéo dài thời hạn thực hiện các cam kết so với các nước phát triển và có thể ở mức độ cam kết thấp hơn, chẳng hạn trong dịch vụ có thể mở cửa ít lĩnh vực hơn; các nước phát triển phải hạn chế sử dụng những hàng rào cản trở mới đối với hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là các hàng hóa, dịc vụ có lợi thế hiện đạng nhập khẩu từ các nước đang và kém phát triển.