Công tác quản lý nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế
Đường lối chủ trương của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Toàn cầu hóa hội nhập kinh tế quốc tế và tự do thương mại đang là su thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Thế giới đã và đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sinh học, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất và tạo ra sự thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, phân phối, tiêu dung, thúc đẩy quá trình quốc tế hóa, xã hội hóa nền kinh tế, cũng như quá trình tham gia của mỗi quốc gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Việt Nam chúng ta không năm ngoài xu thế chung đó. Ngay sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã quan tâm đến việc xây dựng và phát triển kinh tế. Tư tưởng mở cửa về kinh tế, hội nhập với kinh tế thế giới đã được thể hiện trong lời kêu gọi Liên hợp quốc (tháng 12 năm 1946) của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chủ Tịch đã nêu rõ chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có những điểm mà trong bối cảnh hiện nay ta vẫn thấy rất đúng và thích hợp:
“ Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của liên hợp quốc…
Tuy nhiên hội nhập kinh tế quốc tế chỉ thực sự chở thành đường lối, chủ chương kể từ khi Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Để thực hiện tiến trình đổi mới và đứng trước những đòi hỏi cấp bách của tình hình quốc tế và kinh tế trong nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã xác định “ đa dạng hóa ,đa phương hóa quan hệ đối ngoại” với phương châm “ Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của nước ta. Trên cơ sở đường lối đó, chúng ta đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi chính sách bao vây cô lập nước ta, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại song phương và đa phương với nhiều loại đối tác, dưới nhiều hình thức, trên nhiều lĩnh vực (trao đổi hàng hóa, đầu tư sản xuất, mở rộng quan hệ tài chính – tín dung, hợp tác khoa học kỹ thuật). Sự hợp tác này được thực hiện theo cơ chế mới: cơ chế thị trường. Nghị quyết Trung ương 3 ngày 29-6-1992 về chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại nêu rõ chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó nhấn mạnh “ Cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, mở rộng hợp tác với các tổ chức khu vực trước hết là ở Châu Á- Thái Bình Dương”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định xây dựng một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời đại hội cũng nêu rõ nhiệm vụ “ Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trương quốc tế”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII (29-12-1997) đã nêu nguyên tắc hội nhập quốc tế của ta là “ trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài”, “ tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”.
Phù hợp với xu thế toàn cầu hóa kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được đẩy mạnh. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đã khẳng định: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Chủ trương đường lối về hội nhập kinh tế quốc tế một lần nữa được nhấn mạnh tại Đại hội Đảng lần thứ X: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên những lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.
Với quyết tâm đẩy nhanh quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27-11-2001 về Hội nhập kinh tế quốc tế và Chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết “ Nghị quyết này có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; liên quan tới tất cả các ngành, các cấp, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; là định hướng cho quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới”. Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của quá trình hội nhập và đề ra 9 nhiệm vụ liên quan toàn diện tới: Công tác tư tưởng, tuyên truyền, xây dựng chiến lược tổng thể với lộ trình cụ thể, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, gắn chủ trương hội nhập với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng, tích cực đàm phán ra nhập WTO và kiện toàn tổ chức.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05-02-2007 ( tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết này đã nêu rõ các cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, đề ra quan điểm chỉ đạo và 10 chủ trương, chính sách lớn. Để triển khai Nghị quyết này, ngày 27-02-2007 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05-02-2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới.Chương trình hành động này xác định nhiệm vụ của các cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương và địa phương, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhằm tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức, đưa nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, nhanh và bền vững.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XI của Đảng (01-2011) diễn ra diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới và đang tích cực tham gia vào các hợp tác kinh tế quốc tế, chủ động đàm phán các Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Chủ trương hội nhập đã được nâng lên tầm cao mới: “triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế”. Theo đó hội nhập giờ đây không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng trên nhiều lĩnh vực khác tuy nhiên Hội nhập kinh tế quốc tế vẫn được coi là nội dung quan trọng nhất. Với chủ trương hội nhập quốc tế thì hội nhập kinh tế quốc tế cần là trọng tâm, phối hợp với các lĩnh vực khác như chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa- xã hội… để một mặt phát triển được một nền kinh tế mở, phù hợp với xu thế chung của thế giới song mặt khác vẫn đảm bảo được nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng được đòi hỏi trong quá trình phát triển theo định hướng đã lựa chọn, đồng thời phát huy được vai trò, đóng góp của đất nước đối với hòa bình, phát triển của khu vực và thế giới.
Để cụ thể hóa chủ trương hội nhập, ngày 10-4-2013. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
Đồng thời, tại kết luận của Bộ Chính trị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương IV khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, Bộ Chính trị đã chỉ đạo rà soát, cập nhập và tổ chức thực hiện Chương trình hành động tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương IV khóa X, bảo đảm phối hợp hài hòa và đồng bộ với chiến lược hội nhập quốc tế.
Đối với tỉnh Phú Thọ. Việc chỉ đạo triển khai công tác Hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện:
Tỉnh ủy tỉnh Phú Thọ đã ban hành Chương trình hành động số 38-CTr/TU ngày 10 tháng 4 năm 2013 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Ủy ban Nhân dân tỉnh đã xây dựng Kế hoạch số 2055/UBND-NV ngày 07 tháng 6 năm 2013 về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ chính trị về hội nhập quốc tế; Kế hoạch số 2628/KH-UBND ngày 26 tháng 6 năm 2014 của UBND tỉnh Phú Thọ về tuyên truyền, quảng bá ASEAN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2014-2015; Quyết định số 1670/QĐ-UBND ngày 04 tháng 7 năm 2013 của UBND tỉnh về việc kiện toàn Ban hội nhập kinh tế quốc tế ( Phó chủ tịch UBND tỉnh là Trưởng ban; Giám đốc Sở Công Thương là Phó ban thường trực; Các thành viên Ban là lãnh đạo các sở, ban, ngành: Văn phòng UBND tỉnh; Công thương; Tài chính; Kế hoạch – Đầu tư; Tư pháp; Khoa học và Công nghệ; Văn hóa thể thao & Du lịch; Nông nghiệp & PT Nông thân; Lao động-Thương binh & Xã hội; Tài nguyên&Môi trường; Chi cục tiêu chuẩn đo lường & Chất lượng) ; Quyết định số 2086/QĐ-BHNKTQT ngày 20 tháng 8 năm 2013 của Trưởng ban hội nhâp kinh tế quốc tế – Phó chủ tịch UBND tỉnh về việc kiện toàn Tổ giúp việc Ban hội nhập kinh tế quốc tế tỉnh Phú Thọ ký ban hành (Các thành viên tổ giúp việc ban hội nhập kinh tế là lãnh đạo các phòng thuộc các sở, ban, ngành: Công thương; Tài chính; Kế hoạch – Đầu tư; Tư pháp; Khoa học và Công nghệ; Văn hóa thể thao & Du lịch; Nông nghiệp & PT Nông thân; Lao động-Thương binh & Xã hội; Tài nguyên&Môi trường; Chi cục tiêu chuẩn đo lường & Chất lượng). Nhiệm vụ của của Tổ giúp việc là tham mưu giúp việc cho Ban hội nhập KTQT và Cơ quan thường trực triển khai công tác HNKTQT trên địa bàn tỉnh Phú Thọ./.