Hiệp định đối tác xuyên Thái bình dương (TPP)

Ngày đăng: 14/12/2017 15:35
Lượt xem : 1183

Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP (viết tắt của từ Trans-Pacific Partnership Agreement) là một hiệp định, thỏa thuận thương mại tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 12 thành viên của TPP bao gồm: Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản.

Bối cảnh kinh tế toàn cầu hiện nay

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã giúp cho nền kinh tế toàn cầu phát triển một cách nhanh chóng. Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành môi trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới.

Tuy thế, giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự khác biệt đáng kể về nhận thức cũng như trong hành động trước toàn cầu hóa. Những nước và các nhóm xã hội yếu thế thường bị thua thiệt do tác động từ những mặt trái của toàn cầu hóa và luôn phản đối nó hoặc trong tâm thế thích ứng bị động. Trong khi đó, những nước và những người có sức mạnh chi phối toàn cầu hóa lại coi nó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức tận dụng những mặt tích cực của nó. Cho dù vậy, toàn cầu hóa vẫn đã và sẽ diễn ra, chi phối dưới hình thức này hay khác, với các mức độ khác nhau đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội của hầu hết các nước, nếu nhìn về dài hạn.

Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay đang chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua các mạng lưới công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế.

Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là xu thế cơ bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải gia tăng thực lực kinh tế của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở rộng khả năng tham dự vào cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu; mặt khác, cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu hướng ngày càng quyết liệt đó cũng khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng quốc tế hóa và tập đoàn hóa khu vực.

Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực làm gia tăng sự liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc các doanh nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt.

Động lực của toàn cầu hóa chính là lợi ích mà các quốc gia có thể thu được nhờ vào sự mở rộng thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc mở rộng này là hoàn toàn phù hợp với công nghệ đang thay đổi, làm giảm chi phí vận tải và thông tin liên lạc quốc tế, tạo điều kiện cho việc khuyếch trương các hoạt động sản xuất và tiếp thị trên khắp thế giới./.

Lý do hình thành ý tưởng ký kết TPP

 – Hiệp định Hợp tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương là một Hiệp định Thương mại tự do nhiền bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á Thái Bình Dương. Hiệp định lúc đầu do 4 nước tham gia khởi xướng gồm Brunei, Chile, New Zealand và Singapore (còn gọi là P4), được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006.

– Khác với các hiệp định thương mại tự do (FTA) khác, Hiệp định Thương mại song phương (BTA), Hiệp định Thương mại tự do khu vực ASEAN (AFTA) hay cam kết WTO, ảnh hưởng của TPP rộng hơn cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và đặc biệt là đầu tư và sở hữu trí tuệ.

– Bên cạnh đó còn các đàm phán phi thương mại như mua sắm chính phủ, môi trường lao động, công đoàn, các hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do vậy ảnh hưởng của việc ký kết hiệp định này đến môi trường kinh doanh và môi trường lao động ở các quốc gia tham gia là rất lớn.

– Xét riêng trên lĩnh vực thương mại hàng hóa, nếu tham gia TPP, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các quốc gia này và ngược lại đều được hưởng mức thuế suất bằng 0%. Trong khi đó các BTA, FTA và WTO chỉ có ý nghĩa mở cửa thị trường và cắt giảm thuế. Nhiều FTA với các quốc gia còn giảm thuế không đáng kể cho hàng hóa Việt Nam.

– Hơn thế nữa, trong số 8 quốc gia đã và đang đàm phán TPP, Mỹ là đối tác xuất khẩu rất quan trọng của Việt Nam và hiện tại nước ta đang xuất siêu sang thị trường Mỹ. Mặc dù đã có BTA với Mỹ nhưng phía Mỹ hiện vẫn chưa cho Việt Nam hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) như 99 quốc gia khác. Bên cạnh đó, hàng hóa Việt Nam càng xuất nhiều vào Mỹ thì càng đối diện với nguy cơ chống bán phá giá. Do vậy, nếu là thành viên của TPP, cơ hội của hàng hóa Việt Nam vào Mỹ sẽ rộng cửa hơn nữa với các ưu đãi tối đa.

– Mặt khác, việc mở cửa thương mại hầu như hoàn toàn của TPP, tương tự như WTO trước đây sẽ có tác động lớn đến thị trường và doanh nghiệp trong nước, sức ép cạnh tranh hàng hóa nâng lên một mức cao hơn, đồng thời với các yêu cầu minh bạch về thị trường, về quyền sở hữu trí tuệ, các điều kiện thu hút đầu tư, thu hút công nghệ cao, quyền đàm phán của người lao động với chủ lao động.

Quá  trình phát triển từ thỏa thuận 4P tới hiệp định đối tác xuyên Thái bình dương (TPP)

– Bắt đầu từ năm 2005, trong khuôn khổ của các diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), có 4 nước là Singapore, New Zealand, Brunei và Chile đã họp với nhau, đi đến một quyết định thành lập một hiệp định thương mại tự do giữa 4 nước này. Về ý tưởng của các nước này, ý tưởng của Singapore là xây dựng một hiệp định FTA cho cả khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đây là một tham vọng rất lớn cho cả 21 thành viên APEC. Tuy nhiên ở thời điểm đó, những nước có cùng quan điểm thành lập một FTA chung là không nhiều, họ chỉ tìm được 3 nước khác là Chile, New Zealand và Brunei, là những nước có hệ thống chính sách thương mại rất tự do, cởi mở. 4 nước có cùng quan điểm đã thành lập ra một hiệp định gọi là P4, lấy tên là Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Nhưng, 4 nước này quá nhỏ, vai trò về kinh tế và chính trị không lớn, cho nên đã không thu hút được sự quan tâm của các nước khác, kể cả các nước thành viên APEC. Thế nên, Hiệp định P4 mặc dù đã được kí nhưng không gây một tiếng vang lớn cho khu vực và trên thế giới.

– Năm 2008, chính quyền Bush đã có cách thức tiếp cận và hội nhập khác, đánh dấu sự chuyển hướng chính trị của Hoa Kỳ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Hoa Kỳ đã quyết định tham gia Hiệp định TPP này vào quý 3 năm 2008. Khi Hoa Kỳ quyết định tham gia Hiệp định P4, mọi chuyện xảy ra khác hẳn, vì một thị trường lớn nhất thế giới đã tham gia khu vực này, tạo ra một cơ hội rất lớn cho những nước xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, những nước chưa có FTA với Hoa Kỳ, để tăng cường xuất khẩu. Vô hình chung, đã tạo ra một sự thay đổi hoàn toàn hình ảnh của P4. Và khi Hoa Kỳ tham gia thì ngay sau đó tại hội nghị APEC được tổ chức tại Peru năm 2008, Úc và Peru đã quyết định tham gia. Như vậy, đến hết năm 2008 TPP đã có 7 nước tham gia.

– Đầu năm 2009, Việt Nam đã nhận được thư mời tham gia TPP. Đến năm 2010, Malaysia bày tỏ mong muốn tham gia TPP. Quá trình để đồng ý cho Malaysia gia nhập TPP diễn ra rất nhanh, vì khi đó chưa có quy trình áp dụng riêng cho thành viên mới muốn tham gia TPP mà đơn giản chỉ là quy trình tham vấn rất nhanh giữa các nước TPP. Đến tháng 9 năm 2010, Malaysia đã được đồng ý tham gia TPP. Đến tháng 10 tại Hội nghị thượng đỉnh APEC, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã thông báo Việt Nam sẽ chính thức tham gia Hiệp định TPP. Tại Hội nghị thượng đỉnh của các nhà lãnh đạo TPP cũng được tổ chức bên lề Hội nghị cấp cao APEC tại Yokohama, Tổng thống Obama đã chính thức chào mừng Việt Nam và Malaysia tham gia TPP. Như vậy đến cuối năm 2010, Việt Nam cùng với Malaysia đã trở thành hai thành viên chính thức mới của TPP, nâng số thành viên của TPP lên 9 thành viên.

– Kể từ khi TPP mở rộng thành viên, một số nước khác cũng đã thể hiện sự quan tâm đối với Hiệp định này là: Canada, Mexico, Nhật Bản và tính đến thời điểm này thì số thành viên TPP là 12 (12/2012: Canada, Mexico; 7/2013 Nhật Bản).

– Tình hình đàm phán đến nay đã có 19 phiên chính thức, nhiều phiên giữa kỳ, 2 phiên cấp Bộ trưởng (Brunei 8/2013 và Bali 10/2013), phiên tiếp theo tại Salt Lake City, Hoa Kỳ 18-24/11/2013, cấp Bộ trưởng tại Singapore đầu tháng 12/2013, hơn 20 nhóm đàm phán với hơn 30 vấn đề.

Tiến trình đàm phán đã đạt được thỏa thuận sơ bộ: Hợp tác và xây dựng năng lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; Vì sự phát triển, gắn kết môi trường chính sách, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng; Chính sách cạnh tranh…

– Các nhóm vấn đề đàm phán chính là:

+   Thương mại hàng hóa;

+   Dệt may;

+   Mở cửa Thị trường dịch vụ và đầu tư;

+   Mua sắm của Chính phủ;

+   Chế độ quản lý đầu tư;

+   Doanh nghiệp Nhà nước;

+   Sở hữu trí tuệ;

+   Thương mại và Lao động;

+   Thương mại và Môi trường;

+   Thương mại điện tử.

Trong đó hiện vấn đề Sở hữu trí tuệ là một trong những nội dung đàm phán khó nhất.

 

                                            Tài liệu của Ban Chỉ đạo Hội nhập quốc tế về kinh tế  

                                                       Do Văn phòng Ban HNKTQT Phú Thọ tổng hợp

Admin

Gửi mail

Tin liên quan