Phát triển thương hiệu để xuất khẩu bền vững và hội nhập thành công
Giá trị kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Phú Thọ năm 2017 ước đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,7% so với cùng kỳ, đạt 109% kế hoạch 2017 (kế hoạch 2017 là: 1.192 triệu USD). Qua 10 năm gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Phú Thọ tăng 6,7 lần so với năm 2007. (Chỉ tiêu xuất khẩu về đích trước 2 năm so với NQ Đại hội tỉnh đảng bộ lần thứ XVIII đề ra). Quý I/2018 xuất khẩu của tỉnh tiếp tục có những tín hiệu đáng mừng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 339,3 triệu USD tăng 29,4% so cùng kỳ năm 2017. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh, tập trung chủ yếu từ 2 nguồn chính:
+ Hàng có xuất xứ tại địa phương gồm: Chè chế biến, hàng nông sản, gia súc và hàng thủ công mỹ nghệ. Mặt hàng chè là một trong những thế mạnh của tỉnh. Hàng nông sản gồm: rau, củ quả, sắn, ngô, chuối. Gia súc gồm: lợn, trâu, bò. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm các loại mành tre, trúc, gỗ mỹ nghệ, sơn mài và đũa gỗ... tuy kim ngạch xuất khẩu chưa cao nhưng khá ổn định, tạo công ăn việc làm và tận dụng nguyên vật liệu tại địa phương.
+ Hàng công nghiệp xuất khẩu của tỉnh, là làm hàng gia công bao gồm: Linh kiện điện tử, Vải sợi, quần áo, tấm trải nền PVC, vải bạt, giày thể thao... là những nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Đặc điểm của nhóm hàng này là sản xuất gia công tại Phú Thọ, nguyên phụ liệu nhập khẩu là chủ yếu, do vậy, giá trị gia tăng thấp, chưa thật sự tham gia chuỗi giá trị cao, thực chất giải quyết vấn đề việc làm cho lao động thủ công, người có tay nghề thấp là chủ yếu.
Để xuất nhập khẩu hàng hóa của tỉnh Phú Thọ chiếm ưu thế trong GDP một cách bền vững, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp: Đó là phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; hình thành, phát triển công nghiệp hỗ trợ; thu hút dự án đầu tư sản xuất công nghiệp mang tính đầu đàn; phát triển thị trường, xúc tiến thương mại; hoàn thiện chính sách thương mại, tài chính, tín dụng và đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ xuất nhập khẩu hàng hóa và xã hội hóa, phát triển nhanh trung tâm dịch vụ logistics; đào tạo phát triển nguồn nhân lực,... Trong các giải pháp trên, vai trò quyết định thuộc về nhóm giải pháp phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là phải nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế trong nước. Bên cạnh việc phải tiếp tục nghiên cứu đánh giá các mặt hàng xuất khẩu thực tế có tiềm năng, có lợi thế cạnh tranh, trong bối cảnh mới của thị trường thế giới, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu cần phải nhằm định hướng chiến lược: cạnh tranh bằng thương hiệu đang diễn ra rất mạnh mẽ và sâu rộng, không chỉ dừng lại ở cấp độ doanh nghiệp mà đã phát triển lên mức độ địa phương, ngành hàng và thậm chí ở cấp quốc gia. Thương hiệu quốc gia gắn với vấn đề hội nhập và phát triển xuất khẩu là phù hợp với xu hướng chung.
Hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu của Việt Nam hiện nay luôn là chủ đề cấp thiết, nóng bỏng. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế hiện nay, cơ hội mở ra nhiều hơn nhưng cũng đi kèm với những thách thức lớn hơn như việc các thương hiệu Việt Nam bị lấn át bởi các thương hiệu nước ngoài trên chính thị trường nội địa, bị đối thủ cạnh tranh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, khai thác một cách bất lợi trên thị trường thế giới.
Mặt khác, trong bối cảnh thương hiệu hàng hóa Việt Nam đang tìm chỗ đứng vững vàng trên thị trường thế giới, việc hợp tác giữa nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp nhằm xây dựng một hình ảnh chung cho hàng hóa Việt Nam và quảng bá hình ảnh chung đó một cách mạnh mẽ trên thị trường nội địa và quốc tế là một cách tiết kiệm thời gian, chi phí, đem lại hiệu quả cao hơn so với thực hiện tự phát, đơn lẻ cho từng thương hiệu. Đây cũng là một trong những cách làm khá hiệu quả của các nước trong khu vực và trên thể giới.
Vấn đề cạnh tranh, phát triển thị trường luôn liên quan đến thương hiệu. Khách hàng quan tâm đến chất lượng sản phẩm nhưng thường lựa chọn dựa vào thương hiệu, vì hầu hết các khách hàng đều không có khả năng đánh giá chất lượng sản phẩm và cũng không muốn mất thời gian để đánh giá, nên thường lựa chọn dựa vào kinh nghiệm của người tiêu dùng trước. Quá trình cạnh tranh thực chất diễn ra trong đầu người tiêu dùng. Do vậy, quá trình cạnh tranh của doanh nghiệp là chiếm được tâm trí của khách hành hướng về sản phẩm của mình. Khách hàng có cả trăm lý do khác nhau để lựa chọn sản phẩm, thương hiệu, nhưng khách hành thường lựa chọn sản phẩm nào, mà họ có nhiều thông tin về nó nhất và thông tin là đáng tin cậy nhất. Doanh nghiệp cần tạo dựng được giá trị cảm nhận cho sản phẩm, làm sao để khách hàng cảm nhận tốt về sản phẩm của mình.
Một lưu ý đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu là tính đồng đều trong các lô hàng của Việt Nam chưa cao, dễ làm mất niềm tin đối với người tiêu dùng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp mới chỉ quan tâm xây dựng thương hiệu ra bên ngoài " Truyền thông đến công chúng" mà chưa quan tâm xây dựng thương hiệu nội bộ, thông qua bản thân mỗi cán bộ trong doanh nghiệp là một kênh truyền thông cho thương hiệu, tạo sự lan tỏa thương hiệu. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế như hiện nay, xây dựng thương hiệu nội bộ có vai trò rất quan trọng.
Theo Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại – Bộ Công Thương, Vũ Bá Phú cho biết, trong thời gian tới, Chương trình Thương hiệu quốc gia sẽ tạo dựng một môi trường thuận lợi cho hoạt động phát triển thương hiệu thông qua phối hơp các chương trình và hoạt động tương đồng về mục tiêu và nội dung của các Bộ, ngành nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lực. Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thương hiệu thông qua các hoạt động đào tạo, tư vấn và thông tin nhằm nâng cao trình độ kinh doanh và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, phát triển xuất khẩu, tăng thị phần nội địa, xác định hướng xuất khẩu để làm nền tảng xây dựng Thương hiệu quốc gia.
Điều quan trọng vẫn là doanh nghiệp cần phát huy nội lực của mình để tạo chỗ đứng vững chắc trên thương trường, khi các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia ký kết sắp tới có hiệu lực, doanh nghiệp sẽ còn nhiều khó khăn và thách thức. Do vậy các doanh nghiệp trong tỉnh cần chủ động tiếp cận, cập nhật thông tin, đồng thời xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm. Có như vậy mới khẳng định được thương hiệu của hàng hóa VN trên thương trường quốc tế.
Quốc Hưng
Phòng Quản lý đầu tư và Hợp tác quốc tế