Doanh nghiệp xuất khẩu cần đổi mới để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu bền vững
Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam xuất siêu nhưng chưa bền vững do phụ thuộc vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Các doanh nghiệp này đang chiếm đến 70% tổng kim nghạch xuất khẩu của cả nước. Trang thiết bị, công nghệ, nguyên liệu sản xuất để xuất khẩu cũng phụ thuộc nước ngoài hơn 70%, nên giá trị gia tăng xuất khẩu không cao.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) Việt Nam chiếm 98% tổng số doanh nghiệp nhưng chỉ chiếm 45% GDP và có 21% doanh nghiệp SME có hoạt động cung ứng cho các doanh nghiệp lớn. Đối với tỉnh Phú Thọ tính đến hết tháng 11/2018 toàn tỉnh có 3.698 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó doanh nghiệp SME chiếm 96,41% tổng số doang nghiệp trên địa bàn tỉnh; số DN sản xuất công nghiệp, chế biến, chế tạo là: 898 chiếm 24,4%; DN dịch vụ thương mại, sửa chữa vân tải, kho bãi là: 1.592 chiếm 43,2% ; hoạt động cung ứng cho doanh nghiệp lớn là không đáng kể (có 04 DN). Rào cản của doanh nghiệp SME là chuỗi cung ứng chưa có, năng suất lao động thấp, công nghệ, kinh nghiệm, quản lý nhân lực yếu.
Mặc dù logistics có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp, doanh nghiệp logistics Việt Nam chỉ phục vụ được khoảng 20 – 25% nhu cầu cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, còn lại là doanh nghiệp nước ngoài. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp logistics Việt Nam quy mô vừa và nhỏ, hoạt động còn manh mún, chỉ có thể cung cấp được các dịch vụ cho các bên thứ 2, thứ 3, chưa có doanh nghiệp logistics nào đạt chuẩn cho vấn đề dịch vụ logistics cho bên thứ 4. Cùng với đó, chất lượng hoạt động logistics Việt Nam còn thiếu ổn định trong vấn đề dịch vụ, thiếu cam kết với khách hàng, thiếu đồng bộ, thiếu tính sáng tạo, chậm đổi mới và làm suy giảm lòng tin của khách hàng.
Theo các chuyên gia, để xuất khẩu bền vững, doanh nghiệp Việt Nam cần phải tăng cường liên kết và tham gia tích cực hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Doanh nghiệp Việt Nam đang có cơ hội phát triển nghành công nghiệp hỗ trợ để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên, để tận dụng được cơ hội trên, các chuyên gia cho rằng, các cơ quan quản lý nhà nước cần nhanh chóng sửa đổi, điều chỉnh cơ chế chính sách tầm quốc gia, địa phương cho phù hợp với 16 Hiệp định tự do thương mại Việt nam tham gia ký kết bắt đầu có hiệu lực; nhất là các chính sách liên quan đến đầu tư hạ tầng trung tâm logistics lớn, chính sách hỗ trợ, khuyến khích thu hút đầu tư công nghiệp hỗ trợ. Thứ hai, tích cực tuyên truyền, tạo môi trường thuận lợi kết nối giữa doanh nghiệp SME với các tập đoàn sản xuất lớn, xây dựng thương hiệu, thị trường ổn định. Thứ ba, quan trọng nhất, mang tính quyết định đó là doanh nghiệp Việt Nam nói chung, của tỉnh nói riêng phải chủ động phân tích năng lực, điểm mạnh, điểm yếu của mình cũng như nắm bắt thông tin nhà mua hàng cần gì, khả năng đáp ứng của doanh nghiệp đến đâu.. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần ưu tiên những việc cần làm và tập trung nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Ngoài ra, theo các chuyên gia, doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tiếp cận và sử dụng hệ thống trao đổi dữ liệu giao dịch điện tử (EDI). Đây là mô hình các đối tác nước ngoài đang hướng đến để bảo đảm sự minh bạch và tiết kiệm. Các chứng từ sẽ được gửi tự động qua hệ thống EDI của nhà xuất khẩu sang hệ thống EDI của nhà nhập khẩu một cách nhanh chóng, chính xác mà không cần có sự can thiệp của con người. So với các phương thức truyền thống là email và fax, hệ thống EDI sẽ giúp tiết kiệm chi phí và nhân lực cho các doanh nghiệp trong các giao dịch hàng hoá.
Quốc Hưng
Sở Công Thương Phú Thọ