Để ngành công nghiệp chế biến gỗ phát triển bền vững
Kỳ I: “Nở rộ” nghề chế biến gỗ
Công ty TNHH MTV Minh Quang - Khu 3, xã Ngọc Đồng, huyện Yên Lập chuyên băm dăm, bóc gỗ, xuất bán cho doanh nghiệp ở Hà Nội.
Phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ cần được thực hiện trên cơ sở kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tốt các vấn đề xã hội. Điều đó có nghĩa là với kinh tế là sự tăng trưởng về quy mô, chuyển dịch về cơ cấu và tính hiệu quả; còn dưới góc độ xã hội là tăng thu nhập, cải thiện trình độ sản xuất, sử dụng hợp lý các nguồn lực và bảo vệ môi trường. Với tỉnh Phú Thọ hiện nay, mặc dù ngành công nghiệp chế biến gỗ đã có sự phát triển, song nhìn chung vẫn chỉ “nở rộ” về mặt số lượng nên thiếu tính bền vững.
Toàn tỉnh hiện có trên 2.700 cơ sở kinh doanh và chế biến gỗ, trong đó có gần 600 doanh nghiệp, trên 2.100 hộ cá thể (kể cả những hộ chưa có giấy phép kinh doanh). Các doanh nghiệp chế biến gỗ có vốn đầu tư quy mô vừa và nhỏ trên 10 tỷ đồng khoảng 14%; từ 5-10 tỷ đồng, khoảng 20%, từ 1-5 tỷ đồng khoảng 40%; còn lại khoảng 26% là các cơ sở có vốn đầu tư dưới 1 tỷ đồng. Số cơ sở chế biến quy mô hộ gia đình (chủ yếu là các xưởng xẻ) thì số vốn đầu tư chỉ vài chục đến vài trăm triệu đồng. Sản phẩm chế biến chủ yếu là: Giấy, bột giấy, dăm mảnh, ván bóc, ván xẻ, đồ mộc gia dụng, ván thanh. Sản phẩm sau chế biến được tiêu thụ ở thị trường trong và ngoài tỉnh, một phần được xuất sang thị trường Trung Quốc, Đài Loan.
Như vậy có thể thấy bức tranh toàn cảnh của ngành công nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh phần lớn là các cơ sở quy mô nhỏ, thậm chí siêu nhỏ với mô hình chủ đạo sản xuất kiểu hộ gia đình, hợp tác xã, tổ hợp tác…Do công nghệ, thiết bị lạc hậu, chưa được đầu tư đúng mức nên hầu hết các cơ sở chỉ thực hiện một hoặc vài công đoạn với sản phẩm chủ yếu là chế biến thô rồi bán cho một số doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu để thực hiện công đoạn hoàn thiện và tiêu thụ sản phẩm. Chỉ một số ít doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ động đầu tư công nghệ, thiết bị, có khả năng tự sản xuất theo thiết kế, xây dựng thương hiệu và có thể tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ, nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả xuất khẩu.
Ông Phùng Văn Vinh - Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm cho biết: Chất lượng sản phẩm gỗ qua chế biến thấp, gỗ có chứng chỉ chiếm tỷ lệ không cao; liên kết chuỗi hạn chế… là những “nút thắt” của ngành chế biến gỗ và lâm sản. Nhu cầu nguyên liệu ngày càng lớn nhưng yêu cầu của thị trường cũng ngày một khắt khe, nhất là đòi hỏi về đảm bảo gỗ hợp pháp. Đây là điều kiện cần và đủ để các doanh nghiệp có thể trực tiếp xuất khẩu sản phẩm gỗ qua chế biến, vươn sang các thị trường khó tính. Vấn đề này rất khó khăn, không phải doanh nghiệp gỗ nào cũng vượt qua.
Thời gian qua, việc trồng rừng sản xuất mới chủ yếu tập trung vào cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp, cơ sở băm dăm, ván xẻ, ván thanh và ván bóc. Trước đây, rừng trồng khoảng 5-6 năm tuổi là đưa vào diện khai thác thì nay mặc dù đã làm tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn các chủ rừng không khai thác rừng non, mà trồng với thời gian kéo dài hơn, giúp tăng thu nhập cho người trồng rừng cũng như giá trị sản phẩm gỗ, song trên thực tế, người dân cũng chỉ kéo dài chu kỳ đến 7-8 năm là khai thác, bởi lý do thiếu vốn, nhu cầu thị trường lại cần nguồn nguyên liệu. Mặc dù họ biết, hạch toán giá trị kinh tế của rừng gỗ lớn giá trị cao gấp 3 đến 4 lần so với rừng gỗ nhỏ. Hiện trên địa bàn tỉnh, diện tích trồng rừng gỗ lớn mới chỉ đạt ở con số khiêm tốn, gần 300ha; chuyển hóa rừng gỗ lớn trên 1.400ha. Có thể thấy, chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào không cao, tất yếu dẫn đến giá trị sản phẩm sản xuất ra rất thấp.
Cũng chính vì vốn đầu tư thấp nên đại đa số người dân tập trung ở loại hình sản xuất chế biến thô, dạng sơ chế, dù loại hình kinh doanh này giá trị gia tăng không cao. Hầu hết các cơ sở hình thành tự phát, năng lực quản trị cũng như năng lực tài chính thấp. Trong khi đó, thị trường tiêu thụ các sản phẩm này bấp bênh, kém bền vững, phải chịu sự điều tiết giá của đối tác, hoạt động sản xuất vẫn chỉ là “ăn xổi, ở thì”. Qua tìm hiểu được biết, các sản phẩm ván bóc chủ yếu cung cấp cho các tư thương Trung Quốc qua đường tiểu ngạch, hoặc bán cho một số doanh nghiệp thuộc địa bàn Hà Nội, Hải Phòng... để họ hoàn thiện sản phẩm rồi xuất đi các nước khác. Do tính chất yêu cầu về chất lượng sản phẩm không cao như các thị trường khác, nên ngay từ đầu, người dân chỉ đầu tư mua máy móc thô sơ để chế biến những sản phẩm đơn thuần kể trên. Bởi vậy xuất hiện tình trạng, khi thị trường Trung Quốc ngừng nhập thì lập tức hoạt động sản xuất gỗ của nhiều cơ sở gần như bị “đóng băng”, không thể chuyển sang sản xuất được các mặt hàng khác phục vụ thị trường khó tính hơn.
Riêng đối với các sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ, gỗ nội thất, sản phẩm ván nhân tạo, ván ép MDF, HDF có giá trị cao nhưng đòi hỏi nguồn nguyên liệu sản xuất phải có nguồn gốc xuất xứ theo quy định, có chất lượng, đồng thời các loại sản phẩm này cần công nghệ chế biến hiện đại và nguồn lao động sản xuất có tay nghề, trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được các tiêu chuẩn về môi trường. Để sản xuất được các sản phẩm này đối với các doanh nghiệp, cơ sở chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh còn là vấn đề lớn.
Chất lượng gỗ nguyên liệu thấp nên sản phẩm chủ yếu ở dạng chế biến thô.
Tại huyện Yên Lập có trên 24.000ha rừng sản xuất, sản lượng gỗ khai thác năm 2018 ước đạt trên 114.800m3. Toàn huyện hiện có 198 cơ sở chế biến gỗ, trong đó 16 cơ sở với hình thức doanh nghiệp, còn lại các hộ cá thể. Ông Nguyễn Huy Tài - Trưởng phòng Kinh tế hạ tầng huyện cho biết: Nhìn chung, các cơ sở trên địa bàn đều có quy mô nhỏ, chủ yếu làm gia công rồi xuất bán các tỉnh khác, trình độ sản xuất thô sơ, ứng dụng khoa học công nghệ trong chế biến chưa sâu; người lao động hạn chế từ trình độ đến tác phong công nghiệp. Điểm hạn chế này khiến lợi nhuận không cao, bị chi phối bởi thị trường.
Hạn chế nữa đối với ngành chế biến gỗ là trong tổng thể cơ cấu ngành nghề chế biến gỗ chưa thể hiện sự gắn kết hữu cơ giữa các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị chế biến liên tục gỗ rừng trồng; sản phẩm của doanh nghiệp này chưa là nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp tiếp theo. Mối liên kết theo chuỗi từ khâu tạo giống đến chế biến, xuất khẩu giữa người trồng rừng và doanh nghiệp chưa chặt chẽ; hạ tầng lâm sinh chưa được quan tâm đầu tư đúng mức; doanh nghiệp nhỏ còn khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, do số lượng các cơ sở chế biến gỗ tăng nhanh dẫn đến mất cân đối giữa cung và cầu trong việc cung cấp nguyên liệu đầu vào. Ở nhiều địa phương, năng lực chế biến đã vượt khả năng cung ứng nguyên liệu nên xảy ra việc khai thác quá mức, sử dụng cây chưa đủ tuổi, gây lãng phí, thiệt hại cho người sản xuất, tạo ra cạnh tranh không lành mạnh trong thu mua nguyên liệu.
Có thể thấy, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, mối liên kết thấp, không có sản phẩm chế biến sâu nên các cơ sở phụ thuộc rất lớn vào sự biến động của thị trường. Vài năm trở lại đây, không ít cơ sở sản xuất điêu đứng vì khi thành lập đã không tính đến nguồn nguyên liệu ổn định cũng như đầu ra cho sản phẩm nên dẫn đến sản xuất cầm chừng, thậm chí phá sản.
Những hạn chế trên khiến ngành chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh chưa thể bứt phá, phát triển chưa xứng với tiềm năng, sản phẩm xuất khẩu trực tiếp còn khiêm tốn. Trong xu thế hiện nay, những thay đổi, điều chỉnh chính sách thường xuyên của các nước xuất khẩu nguyên liệu và nhập khẩu đồ gỗ ảnh hưởng không nhỏ đến ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản; các hiệp định thương mại tự do và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản. Điều đó đòi hỏi các cấp, các ngành cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm gỗ. Đây cũng là điều kiện tiên quyết trợ lực cho ngành công nghiệp chế biến gỗ của tỉnh phát triển bền vững, hướng tới xuất khẩu.
Theo Phương Thảo - Nguyễn Huế (baophutho.vn)